Mân Đế Vương_Diên_Quân

Sang năm Quý Tị (933), có người nói rằng trông thấy rồng ở Chân Phong trạch, Vương Diên Quân mệnh đổi gọi nhà này thành Long Dược cung. Vương Diên Quân đến Bảo Hoàng cung thụ sách phong, chuẩn bị nghi vệ, nhập phủ tức hoàng đế vị, quốc hiệu là Đại Mân, đại xá, cải nguyên Long Khải, đổi tên là Lân. Vương Diên Quân truy tôn phụ tổ lập 5 miếu (thay vì 7 như thông thường).[4] Ông bổ nhiệm liêu thuộc Lý Mẫn làm tả bộc xạ, môn hạ thị lang; bổ nhiệm Vương Kế Bằng làm hữu bộc xạ, trung thư thị lang, đồng bình chương sự; bổ nhiệm thân lại Ngô Úc làm xu mật sứ. Đương thời, sách lễ sứ của Hậu Đường là Bùi Kiệt (裴傑) và Trình Khản (程侃) cũng đến cửa biển, Vương Lân cho Bùi Kiệt trở về Hậu Đường, song giữ Ngô Úc lại mặc dù người này một mực xin được về bắc. Vương Lân tự thấy Mân nước nhỏ đất hẹp, thường cẩn trọng trong công việc với các nước láng giềng, do vậy nước Mân khá yên ổn. Sau đó, ông phong Vương Kế Bằng làm Phúc vương, cho đảm nhiệm thêm chức Bảo Hoàng cung sứ. Ngày Canh Thìn (5) tháng 5 (31 tháng 5), Mân xảy ra động đất, Vương Lân lại 'tị vị tu đạo', mệnh Phúc vương Vương Kế Bằng tạm quyền cai quản quốc sự, đến ngày Mậu Tý (14) tháng 7 (7 tháng 8) thì phục vị. Vương Thẩm Tri vốn có tính tiết kiệm, phủ đều xây thấp hẹp, song đến thời Vương Lân thì lại xây cung điện lớn, việc xây dựng diễn ra thường xuyên. Đến tháng 11 ÂL, Vương Lân tôn Lỗ quốc thái phu nhân Hoàng thị làm hoàng thái hậu.[4]

Trước đó, vào tháng 9 ÂL, Xu mật sứ Tiết Văn Kiệt nói với Vương Lân phải áp chế các thành viên khác trong tông thất. Cháu của Vương Lân là Vương Kế Đồ (王繼圖) tức giận nên mưu phản. Vương Lân sau đó diệt trừ Vương Kế Đồ và hơn một nghìn người khác được cho là có liên quan. Đến tháng 11 ÂL, Tiết Văn Kiệt cũng vu cáo Xu mật sứ Ngô Úc, kết quả là Ngô Úc cùng thê tử cũng bị diệt trừ. Thân tòng đô chỉ huy sứ Vương Nhân Đạt vốn có tính khẳng khái và không kiêng kị, Vương Lân vốn không ưa, đến tháng 12 ÂL do bị vu cáo là làm phản nên gia tộc người này cũng bị diệt trừ.[4]

Khi một thổ hào ở Kiến châu là Ngô Quang (吳光) nhập triều, Tiết Văn Kiệt lại cáo buộc người này phạm tội, Ngô Quang giận dữ, đem theo một vạn người chạy sang Ngô. Đến tháng 11 ÂL, Ngô Quang thỉnh binh của Ngô để tiến công Mân, Tín châu[c 5] thứ sử Tương Diên Huy (蔣延徽) của Ngô không đợi lệnh từ triều đình mà dẫn binh hội quân với Ngô Quang tiến công Kiến châu. Vương Lân khiển sứ cầu cứu Ngô Việt. Tháng giêng năm Giáp Ngọ (934), Tương Diên Huy đánh bại quân Mân ở Phổ Thành; bao vây thành Kiến châu; Vương Lân khiển Thượng quân Trương Ngạn Nhu (張彥柔) và Phiêu kị đại tướng quân Vương Diên Tông (王延宗) đem vạn binh cứu Kiến châu. Tuy nhiên, trên đường đi, sĩ tốt không tiến nữa, nói rằng nếu không bắt được Tiết Văn Kiệt thì sẽ không thể đánh địch. Khi tin tức đến kinh thành Trường Lạc, Hoàng thái hậu và Vương Kế Bằng thuyết phục Vương Lân giao Tiết Văn Kiệt. Vương Lân thoạt đầu không có phản ứng, Vương Kế Bằng bắt Tiết Văn Kiệt và giải người này đến chỗ các binh lính ở tiền phương, các binh lính ăn thịt Tiết Văn Kiệt và tiến đến Kiến châu. Biết tin quân Mân và Ngô Việt tiến đến, Tương Diên Huy đem binh về, quân Mân truy kích và gây thiệt hại nặng nề cho quân của Tương Diên Huy.[4]

Ngày 1 tháng 1 năm Ất Mùi (6 tháng 2 năm 935), Vương Lân đại xá, cải nguyên Vĩnh Hòa.[6] Mặc dù Kim thị xinh đẹp đoan chính song không được Vương Lân sủng, và bà chưa từng được phong hậu.[8] Vương Lân sủng ái Thục phi Trần Kim Phượng, bà nguyên là tì nữ[6] hoặc thiếp[8] của Vương Thẩm Tri, bà được mô tả là xấu xí nhưng 'dâm'. Tháng 2 ÂL năm đó, Vương Lân lập bà làm hoàng hậu.[6]

Những năm cuối đời, Vương Lân bị trúng phong. Ông yêu mến một bầy tôi tên là Quy Thủ Minh (歸守明), người được phép xuất nhập hậu cung. Trần hoàng hậu tư thông với Quy Thủ Minh và Bách công viện sứ Lý Khả Ân (李可殷), quốc nhân biết chuyện song không ai dám đàm luận. Lý Khả Ân thường vu cáo Phòng thành sứ Lý Phỏng (李倣) trước Vương Lân, trong khi người trong tộc của Trần hoàng hậu là Trần Khuông Thắng (陳匡勝) vô lễ với Vương Kế Bằng, do vậy cả Lý Phỏng và Vương Kế Bằng đều hận. Khi Vương Lân bị bệnh càng nặng, Vương Kế Bằng cảm thấy vui mừng (vì sắp được kế vị). Lý Phỏng thì tin rằng Vương Lân sẽ không thể hồi phục, do vậy vào ngày Kỉ Mão (18) tháng 10 năm Ất Mùi (16 tháng 11 năm 935) cho tráng sĩ giết chết Lý Khả Ân. Tuy nhiên, đến ngày Canh Thìn hôm sau, khi bệnh tình của Vương Lân giảm bớt, Trần hoàng hậu tấu về sự việc. Mặc dù mang bệnh, Vương Lân vẫn cố gắng thị triều để hỏi về tử trạng của Lý Khả Ân. Lý Phỏng lo sợ, dẫn bộ binh đánh trống huyên náo và tiến vào cung. Vương Lân biết có biến, trốn bên dưới Cửu Long trướng, loạn binh đâm ông và đi ra. Vương Lân trọng thương, cung nhân không muốn ông phải chịu khổ nên giết ông. Lý Phỏng và Vương Kế Bằng giết Trần hoàng hậu, Trần Thủ Ân (陳守恩), Trần Khuông Thắng, Quy Thủ Minh và đệ của Vương Kế Bằng là Vương Kế Thao (đắc tội với Vương Kế Bằng từ trước). Đến ngày Tân Tị (20) cùng tháng (18 tháng 11), Vương Kế Bằng tức hoàng đế vị.[6]

Theo Tư trị thông giám, ông được truy thụy hiệu Tề Túc Minh Hiếu hoàng đế (齊肅明孝皇帝), miếu hiệu là Huệ Tông (惠宗).[6] Tân Ngũ Đại sử ghi rằng ông được truy thụy hiệu Huệ hoàng đế (惠皇帝), miếu hiệu là Thái Tông (太宗).[5]